Thứ Hai, 25 tháng 8, 2014

VĂN TẾ THÀNH CỔ-THACH HÃN.

Hỡi ôi!
Nước vẫn chảy qua Thạch Hãn đêm ngày
 Sóng vẫn dội về Cửa việt năm tháng
Mây vẫn bay...!
Gió không ngừng thổi...!
Thế mà!
Xác đã vội gửi bờ sông, đáy bể
Mẩu xương vùi, đụn cát, hố sâu
Những linh hồn phảng phất nơi đâu
Linh thiêng
Xin về...!

Các linh xưa!
Đôi mươi mười tám, ngác ngác ngơ ngơ
Nào đã biết thế sự bao giờ, mớ giàng buộc Trung Hoa-Nga-Mỹ
Kẻ chỉ biết nhổ mạ, thả bò, đánh lờ, đánh đó, úp cá, vó tôm...
Đứa còn nghịch, đánh bi đánh đáo, trốn tìm, trận giả, đá bóng thả diều...
Nhìn trộm con gái đã nhiều, có tiếng yêu chưa một lần dám ngỏ.

Ăn thường độn sắn-khoai-ngô, nhường hạt gạo em thơ mẹ yếu
Mặc quen cũ, tích kê, lộn cổ, kính phiếu tem bố ốm, bà già
Sắn tay thay bố việc nhà…
Cho phải nghĩa, trồng cây hái quả.
Mấy Linh!
Sáng dạ hơn người, vừa hết lớp mười, mới vào đại học.
Mừng viễn cảnh đỡ nheo đỡ nhóc, bõ mấy năm đèn sách miệt mài.

Mắt từng ngó “Con ma-Ép bốn”, rít đảo điên, pháo nổ bom rung
Tai thường nghe “Thù nhà nợ nước”, trống tòng quân giục giã tùng tùng.

Chiến trường nhẹ nhõm như không. “Đi chiến đấu là niềm vui bất tận”
Dòng máu trẻ cũng sôi lên uất hận, nghĩa nam nhi, không nhẽ ngồi nhìn.

Rạng ngời mấy đứa hy sinh, u ất lắm, mẹ cha giấu kín...!
“Vẻ vang” mảnh giấy treo tường, tự hào lắm, bày phô khung kính.

Đi thì hứa hẹn chiến công, nhất xanh cỏ bằng không đỏ ngực
Ở thời thẹn với non sông, sống như chết, mẹ cha tủi nhục.

Sao dám trách trời cao đất rộng, bày làm chi tranh chấp đánh nhau
Há dám giận mẹ cha vụng tính, đẻ ra con vào lúc binh đao

Đứa đồng bằng, đứa núi cao
Trung du đồi cọ, xôn xao xóm chài
Mấy thằng đến từ quê chiêm trũng
Mấy đứa rời đồng muối thuyền câu
Thôi thì quê ở những đâu
Cùng về, cùng khoác một màu xanh rêu.
Ngày từ giã!
Cha mẹ âm thầm, sắm lưng cơm, cúng ông bà tiên tổ, mong cho con chân cứng đá mềm..., xin đẩy giúp hòn tên mũi đạn.
Xóm làng lục đục đến thăm, uống nước, ăn trầu, hút thuốc, chúc lập công, mong may mắn, tiến chức thăng quan.
Lũ em ngơ ngác nhìn nhau hốt hoảng, biết từ mai, chỗ dựa không còn.
Bạn gái sụt sùi, khăn tay dúi vội, khất lời yêu..., thôi, để ngày về.

Hai mươi mốt ky lô gam, độn ngô-khoai-sắn.
Hai mươi bốn giờ nghiêm nghỉ, vác đất trèo non.
Mốt hai, bồng súng, đi đều, tập đội ngũ đôi tuần quen nếp
Bắt súng, đâm lê, ném lựu, luyện kỹ thuật mấy bữa mà tinh

Ngoại giao lý sự trên bàn, ngơ ngác thấy Vơ la-Thượng Hải*
Chiến sự xoay chuyển lôi đình, thành Quảng Trị bên giành bên giữ

Đổi mạng sống thi gan thách đấu.
Giữ thế cờ khéo-vụng, thắng-thua.
Ghê gớp mấy, anh hùng cách mạng, lưng trần phơi hứng pháo chịu bom
Hãi hùng thay nước sông nhuốm đỏ, vẫn lao qua, mặc kệ đạn thù.
Than ôi!
Gan bằng thép cũng chảy ra vì nóng.
Trí bằng gang cũng chẳng chống được bom.
Kính nể thay!
Biết vào chết mà không ai lùi bước, dặn truyền nhau trước lúc lên đường
Rõ tử sinh, tổ quốc trường tồn, thầm vái vọng mẹ cha rồi bước...
Hãi hùng thay!
Sông đỏ máu, xác trôi Cửa việt..., bữa no say cá lớn thuồng luồng
Thành tan nát thịt vùi trong cát, dịp dư thừa giun dế mèo hoang.
Thác đi để lại tiếng vang, Thành Quảng Trị tám mốt ngày giữ được.
Chết lưu truyền lửa hận, trận cuối cùng, chiến thắng ắt về ta.

Nghe tin giữ mẹ già chết lặng, cắn chặt môi nuốt nước mắt vào trong.
Người bạn gái vùi đầu chăn tức tưởi, quặn lòng đau mấy bữa bỏ ăn.

Nước rửa mãi vẫn là sông Thạch Hãn.
Gió đảo điên thành cổ vẫn trơ trơ.
Khóc con mãi rồi mẹ cha cũng mất.
Xót xa nhiều mầm sống vẫn sinh sôi.
Ơi các Linh!
Sống đã liều vì dân vì đảng.
Thác thành ma xin hãy độ trì.
Cho quốc thái dân an.
Cho con cháu..., muôn đời..., không cần binh đao nữa!

Bốn mươi mốt năm là ít hay nhiều...!
Lập đàn bằng tâm...
Thắp nhang nước mắt...
Cúi lạy từ xa...
Linh thiêng
Chứng giám!
=-=-=-=-=

*Tin dẫn: Cuộc chiến Việt Nam được an bài từ chuyến công du của ngoại trưởng Hoa Kỳ đến Vơ la đi mia vô sơ tốc (Liên Xô) và Thượng Hải (Trung Quốc). Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho rằng; Mỹ đã bán đứng VNCH và nhiều người cho rằng Liên Xô, Trung Quốc bỏ rơi VNDCCH từ đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét